Giống

Nguồngốc và phân loại giống hồng.

            ỞViệt Nam, hồng được trồng chủ yếu ở các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra và ở Đà Lạt,Lâm Đồng. Diện tích trồng hồng cả nước khoảng 7,000 ha với sản lượng khoảng50.000 tấn. Các tỉnh có diện tích lớn tập trung là: Lạng Sơn 2,087 ha, BắcGiang 1,600 ha, Hòa Bình 567 ha và Lâm Đồng 1700 ha. Năng suất hồng ở Việt Namthấp, khoảng 7- 8 tấn/ha, trong khi đó năng suất hồng ở Úc đạt 35 tấn/ha.

            Hồng châu Á (D. kaki) là loài có hiệu quả kinh tế nhất và có nhiều giống được trồngphổ biến nhất. Hồng Châu Á tích lũy một lượng chất tannins hòa tan trong tế bàotannin trong thịt quả, và chúng là nguyên nhân sinh ra vị chát. Ở một số giốnghồng, vị chát này biến mất khi chín (Giống không chát), nhưng có những giốngkhác thì không (Giống chát), do vậy việc phân loại hồng dựa trên bản chất này.Ngoài ra, người ta còn phân loại các giống hồng dựa trên màu sắc thịt quả củachúng do ảnh hưởng của việc thụ phấn (hình thành hạt). Trong một nhóm, thịt quảkhông thay đổi màu sắc do sự hình thành của hạt (pollination-constant, PC);nhóm còn lại thịt quả chuyển thành màu tối do sự hình thành của hạt(pollination-variant, PV). Ở những giống PV, màu tối của thịt quả được sản sinhdo quá trình ô xy hóa khử, và các hợp chất tannins không hòa tan. Kết hợp haiphương pháp phân loại trên, các giống hồng được chia thành 4 loại như như sau(Hình 1):

- Nhóm 1: nhóm PCNA (PollinationConstant Non-Astringent) gồm những giống không chát và màu sắc thịt quả khôngbiến đổi khi thụ phấn.

            - Nhóm 2: nhóm PVNA (PollinationVariant Non-Astringent) gồm những giống không chát và màu sắc thịt quả biến đổikhi thụ phấn.

            - Nhóm 3: nhóm PCA (PollinationConstant Astringent) gồm những giống chát và màu sắc thịt quả không biến đổikhi thụ phấn.

            - Nhóm 4: nhóm PVA (PollinationVariant Astringent) gồm những giống chát và màu sắc thịt quả biến đổi khi thụphấn.






Hình1. Bốn loạihồng dựa theo cách phân loại về độ chát và màu sắc thịt quả; a. Giống khôngchát và màu sắc thịt quả không biến đổi khi thụ phấn; b. Giống chát và màu sắcthịt quả không biến đổi khi thụ phấn; b. Giống không chát và màu sắc thịt quảbiến đổi khi thụ phấn; d. Giống chát và màu sắc thịt quả biến đổi khi thụ phấn(Nguồn: Jules Janick, 2000)

Ở Việt Nam, theo Phạm VănCôn (2000) có 3 loại hồng chính:

- Hồng lông (Diospyrostonkinensis Linn): phân bố rải rác ở khắp miền Bắc. Quả to, tròn hoặchơi dẹt; khi còn xanh vỏ quả có phủ lớp lông tơ, nhiều chất nhờn và chấm đen. Phẩmchất loại này kém (có vị chát và hôi) nên không được người tiêu dùng ưa chuộng.

- Hồng cậy (Diospyroslotus Linn): xuất hiện rải rác ở các tỉnh phía Bắc. Quả tròn, dẹt,bé, trọng lượng chỉ 10g/quả, trước đây người dân thường dùng lấy nhựa phất quạt.

- Hồng trơn (Diospyroskaki Thund (L): phát triển nhiều ở các tỉnh phía Bắc và Đà Lạt. Lá nhẵn,hình bầu dục hoặc elip, mặt trên lá màu xanh sẫm, mặt dưới có lông màu xanh nhạthoặc trắng. Cây sinh trưởng khỏe. Phẩm chất tùy thuộc vào giống.

Trong 3 loài trên chỉ có hồngtrơn là có giá trị thương mại cao. Loại này chia làm 2 loại là hồng chát vàhồng không chát. Hồng không chát là loại có quả rắn, ăn giòn và thường đượcăn trước khi quả mềm.

Hồng chát là loại nếu khôngxử lý khử chát thì quả chỉ hết chát khi đã hoàn toàn chín mềm, và thông thườngquả có thể tồn tại ở trên cây hàng tháng trời, để chuyển hóa thành đường và quảcó màu sắc đậm, đẹp. Hồng chát có thể phân thành 2 nhóm dựa vào phương pháp khửchát là hồng giấm và hồng ngâm. Hồng ngâm: chất chát (tanin) ở dạng dễhòa tan, vì vậy hồng được ngâm trong nước sạch để tanin hòa tan vào nước vàkhông còn vị chát ngay trong trạng thái cứng. Một số giống hồng ngâm phổ biến ởnước ta như hồng Bảo Lâm – Lạng Sơn, hồng Quản Bạ - Hà Giang, hồng ngâm Lục Yên– Yên Bái, hồng Thạch Hà - Hà Tĩnh,... Hồng giấm (đỏ): chất tanin thuộcdạng khó tan, nhưng có thể chuyển thành nhiều chất khác (trong đó có đường, vìvậy làm tăng độ ngọt cho quả) thông qua quá trình tác động của nhiệt độ hoặccác chất làm chín (đốt hương, đất đèn, ethylen...). Sau quá trình chín, hồng trởnên mềm và dễ bị tổn thương, bởi vậy đòi hỏi cao về bao bì đóng gói và vận chuyển.Các giống hồng đỏ phổ biến ở nước ta như hồng Thạch Thất, hồng Nhân Hậu, hồngSơn Dương, hồng Đà Lạt...

Ngoài ra, trên cơ sở tuyểnchọn giống nhập nội của một số đề tài nghiên cứu, hiện nay tại Việt Nam cũng đãvà đang phát triển một số diện tích giống hồng không chát (Hồng ngọt) có nguồn gốc nhập từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,Úc…Trong đó giống hồng MC1, là giống hồng Fuyu đã được Bộ NN&PTNT công nhậngiống tạm thời. Quả to, dẹt, hơi vuông; trọng lượng 200 –250 g/quả; khi chín vỏmàu vàng đỏ, ruột vàng da cam, ăn giòn, ngọt, có thể ăn ngay mà không cần bất kỳmột khâu chế biến nào.